Thứ Hai, 27 tháng 9, 2010

TIẾNG NÓI THƯỢNG ĐẾ VỚI CON NGƯỜI


Kính thưa quý vị & các bạn,
Hầu hết người Việt ta đều tin rằng một có một Ông Trời hay Chúa Trời. Chúa Trời là Đấng Chủ Tể hoàn vũ, Đấng cầm nắm vận mệnh muôn loài muôn vật, cai quản vũ trụ; là Đấng tạo dựng trời đất, hiện hữu, tự có, không sanh bởi ai; là Đấng điều khiển mọi hoạt động của con người một cách khôn ngoan. Dầu không ai thấy Ngài, nhưng Ngài thấy hết mọi sự, mọi người, kể cả những điều kín ẩn mà ta muốn giấu. Chúa Trời biết cả quá khứ, hiện tại và tương lai chúng ta. Vì Ngài là Đấng tạo dựng muôn loài nên Ngài đầy lòng thương yêu các tạo vật kể cả con người. Ngài chu cấp nhu cầu cho mọi loài và đặc biệt là ban hạnh phúc cho con người. Người Việt chúng ta tin rằng có một Chúa Trời toàn năng, toàn mỹ, toàn ái nhưng lại vô cùng công bình chánh trực. Ngài cho phép cho con người tự lựa chọn một con đường cho mình. Chính vì thế loài người có trách nhiệm về hành động của mình. Kết quả của sự lựa chọn đó có thể dẫn đến hạnh phúc hay bất hạnh. Lời của người xưa thường nói: “Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân” nghĩa là "Chúa Trời không phụ người có lòng tốt”. Thánh Kinh chép: “Mắt Chúa Trời ở mọi nơi mọi chỗ, hằng dõi theo kẻ dữ, người lành” (Châm Ngôn 15:3) Người Việt ta cũng biết rõ Chúa Trời có quyền trên thiên nhiên thời tiết, nhất là những nhà nông lúc nào cũng sống dựa vào ơn mưa móc của Trời. Ca dao nước ta có câu:
Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp
Lấy ngày ấm no

Nhưng làm cách nào để biết được lời chỉ dạy của Chúa Trời, làm cách nào để loài người chúng ta có thể nghe được tiếng phán của Ngài. Thánh Kinh cho ta biết có 4 cách Chúa Trời bày tỏ chính Ngài cho nhân loại chúng ta:
(1) Qua thiên nhiên: Thi sĩ David đã ca tụng Chúa rằng: Trời xanh tường thuật vinh quang Chúa Trời, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia. Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu là thông điệp loan đi tới chân trời góc biển. Chúa căng lều cho thái dương tại đó, mặt trời xuất hiện như tân lang rời khỏi loan phòng, và vui sướng lên đường như tráng sĩ. Từ chân trời này, mặt trời xuất hiện, rồi chuyển vần mãi đến chân trời kia, chẳng có chi tránh khỏi hơi nóng mặt trời được. (Thi Thiên 19:1-6).

Tiến Sĩ Billy Graham nói rằng: “Ngôn ngữ của thiên nhiên nói lên sự hiện hữu của Chúa Trời, đó là ngôn ngữ của sự TRẬT TỰ - XINH ĐẸP – TOÀN HẢO & THÔNG SÁNG”. Tiến sĩ Billy Graham cũng thuật lại lời nói một khoa học gia khi tiếp xúc với ông rằng: “Khi tôi nghĩ đến sự trật tự của vũ trụ, cũng như tất cả muôn vật trong vũ trụ đều tuân theo những định luật khiến cho tôi không tài nào hiểu nỗi cho đến khi tôi tin rằng có một Chúa Trời. Từ đó tôi đặt niềm tin vào Ngài là Đấng đã nói chuyện với loài người qua thiên nhiên”.
Đức Chúa Trời đã bày tỏ chính Ngài qua sự đều đặn và chắc chắn trong ngày, mùa, sự chính xác của mặt trời, mặt trăng và sự chuyển động của các ngôi sao. Qua đất chúng ta đã quay quanh mặt trời và tự xoay quanh trên một cái trục vô hình với độ nghiêng 23.5 độ, nhờ vậy tạo ra bốn mùa, tám tiết. Nếu quả đất không xoay trên trục nghiêng đó thì phần lớn quả đất sẽ biến thành sa mạc, chưa kể những hậu quả kinh khiếp khác.
(2) Qua lương tâm. Chẳng những Chúa Trời đã nói chuyện với loài người qua thiên nhiên, Ngài còn nói chuyện với loài người chúng ta qua lương tâm. Có người nói rằng “Lương Tâm là tiếng nói còn sót lại của Thượng Đế sau khi loài người phạm tội”. Khác với con vật, khi làm điều gì sai trái, con người thấy bất an, bị lương tâm cắn rứt. Ca dao nước ta có câu “Cọp giết người thì cọp yên nghỉ, người giết người người ngủ sao yên”. Thánh Kinh chép: “Linh tánh loài người là ngọn đèn của Chúa Hằng Hữu” (Châm Ngôn 20:27). Nhờ lương tâm, con người có bản tính đạo đức, có tri giác, có lòng tin cậy, nhất là có niềm tin vào Đấng Tối Cao, Đấng có Năng Quyền vượt trổi con người. Thánh Kinh chép: Khi người nước ngoài không có luật pháp, theo bản tính làm những điều luật pháp đòi hỏi, hành động theo bản tính là luật pháp của họ. Việc nầy chứng tỏ các nguyên tắc luật pháp đã được ghi vào lòng họ, lương tâm cũng làm chứng khi lên tiếng buộc tội hay biện hộ. (Rô-ma 2:14-15) Triết gia Paul giải thích rằng: Dầu không có luật pháp. tức là chưa biết Thánh Kinh như người Do Thái, người ngoại bang cũng nhận biết về lẽ phải quấy. Theo bản năng, họ biết rõ việc nói dối trộm cắp, ngoại tình và giết người là sai. Từ bản năng đạo đức, họ lập bộ luật riêng của mình và hành vi phải quấy. Chẳng hạn, con người tự biết rằng hiếu kính cha mẹ là lẽ phải, chứng tỏ việc mà luật pháp dạy bảo đã ghi trong lòng loài người chúng ta. Chúng ta cũng biết lương tâm mình đóng vai một quan tòa không ngừng xác định điều nào sai điều nào đúng, lúc thì cáo giác, lúc binh vực, lúc ngăn cấm hoặc cho phép.
(3) Qua niềm tin và lý trí. Ngài nói chuyện với chúng ta qua niềm tin và lý trí con người, nhất là khi con người đối diện với hiểm nguy, sự chết. Có người nói rằng: “Không có một người vô thần nào nằm dưới hầm núp đạn cả!” Câu nầy có nghĩa là khi một người lính đối diện với cái chết, dù lòng anh có cứng cỏi, không tin Thương Đế hiện hữu, nhưng lúc đó lòng anh cũng cầu mong ơn trên giúp mình tránh khỏi lằn tên mũi đạn. Rất có thể là có nhiều lý do khiến cho loài người khước từ Đấng Tạo Hóa mình, nhưng khi đối diện với hiểm nguy, trong nơi sâu thẳm của lòng họ cũng tin rằng có một Đấng Tối Cao đang hiện hữu. Đây chính là tiếng nói của Chúa Trời qua lý trí và niềm tin của loài người chúng ta.

(4) Qua Chúa Cứu Thế Jesus. Nếu Chúa Trời chỉ bày tỏ chính Ngài với chúng ta qua thiên nhiên, qua lương tâm, qua lý trí và niềm tin của ta, thì cũng chưa đủ. Con người vẫn tiếp tục sống trong hoang mang, lo sợ, không biết rồi tương lai của mình sẽ đi về đâu, và bao nhiêu câu hỏi về cuộc đời sau vẫn thổn thức trong tâm tư của con người chúng ta.
Cho nên Chúa Trời đã bày tỏ chính Ngài qua Chúa Cứu Thế Jêsus. Thánh Kinh chép rằng: Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Chúa Trời đã phán dạy cha ông chúng ta qua các nhà tiên tri; Nhưng trong những ngày cuối cùng này, Chúa Trời đã phán dạy chúng ta qua Con Ngài. (Hê-bơ-rơ 1:1-2a).
Qua lời Thánh Kinh nầy, ta thấy Đấng Tạo Hóa đã nói với loài người chúng ta qua các nhà tiên tri, tức là những phát ngôn nhân của Ngài, những người được Chúa Trời soi dẫn để nói thay cho Ngài. Họ là những người đáng tin cậy của Ngài. Quyển Thánh Kinh nhân loại có ngày nay do chính họ viết. Nhưng đến ngày sau cùng Chúa Trời dùng chính Chúa Cứu Thế Jêsus để phán dạy cho nhân loại. Thánh Kinh chép: Chẳng ai thấy Đức Chúa Trời, chỉ Con Một trong lòng Cha, là Đấng giải bày Cha cho chúng ta biết. (Giăng 1:18) Hơn 2000 trước chính Chúa Cứu Thế Jêsus cũng nói: “Ai thấy Ta tức là đã thấy Cha” (Giăng 1:18). Chính qua Chúa Jesus, Đức Chúa Trời đã sáng tạo thế gian. Chúa Cứu Thế Jêsus là tác nhân chủ động trong sự sáng thế. Ngài đã làm nên các bầu trời của tinh tú, nhân loại và kế hoạch thiên thượng cho các thời đại. Những vinh quang của Chúa Trời được phản ánh qua Chúa Jesus. Chúa Cứu Thế Jêsus đã và đang nâng đỡ cõi vũ trụ bởi lời phán đầy quyền năng của Ngài. Nhờ Ngài mà sự sống được duy trì, mọi vật trong vũ trụ được liên kết với nhau, vũ trụ luôn trật tự là những điều mà các nhà khoa học không tài nào giải thích được.
Điều cần thiết hơn hết đối với loài người chúng ta, là chính Chúa Cứu Thế Jêsus đã dùng chính mạng sống Ngài chết thế tội lỗi cho loài người, để những ai tiếp nhận Ngài sẽ được tư cách làm con cái Chúa Trời. Chúa Jêsus phán: Vì Đức Chúa Trời yêu thương nhân loại, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, để ai tin nhận Đấng ấy sẽ không bị hư mất nhưng được sự sống vĩnh phúc. Đức Chúa Trời cho Con Ngài xuống thế gian nào phải để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Đức Con mà được cứu. Ai tin Đức Chúa Con hẳn khỏi bị kết án, nhưng ai không tin thì đã bị lên án rồi vì chẳng chịu tin nhận Con Một của Đức Chúa Trời. (Giăng 3:16-18). Qua lời Kinh Thánh nầy ta thấy được tấm lòng của Chúa Trời, mức độ tình yêu của Ngài không ai có thể đo lường được. Ngài dùng chính sự giáng thế làm người của Con Ngài để nói cho loài người chúng ta biết rằng Ngài yêu loài người chúng ta. Ngài yêu chúng ta đến nỗi hy sinh mạng sống Con Ngài. Nhưng có một điều vô cùng quan trọng là không phải ai cũng đương nhiên được cứu, trừ những người công nhận Chúa Cứu Thế Jêsus là Đấng Giải Cứu cho bản thân họ. Chúa Trời yêu quý vị, Ngài đã dùng mọi cách để bày tỏ chính Ngài cho quý vị, Ngài dùng ngôn ngữ của thiên thiên, dùng tiếng nói lương tâm, dùng niềm tin và dùng Chính Con Ngài là Chúa Cứu Thế để bày tỏ tình yêu của Ngài.
Rất mong quý vị & các bạn mời Chúa Cứu Thế Jêsus vào đời sống mình trong giờ nầy, tiếp nhận Chúa Jêsus là Cứu Chúa là Chủ đời sống của mình.
Kính Chào quý vị & các bạn.